29/09/2023
12,424 lượt đọc
Trong niềm tự hào vì 1 công ty Việt Nam có thể niêm yết trên 1 trong những sàn giao dịch chứng khoán nổi tiếng nhất thế giới là Nasdaq của Mỹ, bài viết này mình tổng hợp những thông tin quan trọng nhất về SPAC để mọi người hiểu chi tiết về phương pháp đã giúp Vinfast niêm yết thành công trên thị trường chứng khoán Mỹ (TTCK Mỹ).
- SPAC (Special Purpose Acquisition Companies) được hiểu là một công ty rỗng, không có hoạt động kinh doanh, không sản xuất hay bán bất kỳ một sản phẩm, dịch vụ nào. Được lập nên với mục đích duy nhất là huy động vốn sau đó dùng số vốn đó đi mua lại 1 công ty X khác để niêm yết công ty X đó lên sàn chứng khoán mà không cần thông qua IPO truyền thống.
- Mục đích của SPAC gần giống với IPO (Initial Public Offering- phát hành lần đầu ra công chúng), tuy nhiên SPAC giải quyết được nhiều điều mà quy trình IPO truyền thống khó chấp nhận. Đó là các thủ tục, kinh phí, thời điểm. Đặc biệt là các thủ tục về minh bạch tài chính, thứ thường khiến các công ty trượt thời điểm gọi vốn.
Nhờ đó mà SPAC là một cách niêm yết cửa sau cho các công ty start-up và cũng là những khoản đầu tư rủi ro hơn so với IPO truyền thống.
- Các ví dụ nổi tiếng như WeWork, Grab đều niêm yết trên TTCK Mỹ bằng cách này.
Ở Việt Nam thì mới đây có Vinfast đã chính thức niêm yết trên sàn Nasdaq với giá trị vốn hóa hơn 23 tỷ USD, hay 1 công ty khác là kỳ lân công nghệ VNG cũng có kế hoạch đi theo con đường này.
- Lịch sử hình thành của SPAC bắt đầu từ những năm 1990 khi các công ty nhỏ nghĩ cách để tránh các quy trình IPO truyền thống mà vẫn huy động vốn trên thị trường mở.
- SPAC trở nên nở rộ đặc biệt trong 2020 và 2021 (Ảnh 1) do mức độ biến động thị trường bị đẩy lên cao trong bối cảnh đại dịch Covid-19 nên rất nhiều công ty muốn niêm yết để huy động vốn trên TTCK. Sức hút của SPAC giảm xuống từ năm 2022 do SEC (Ủy ban Chứng khoán Mỹ) ban hành các quy định kế toán mới để tăng cường giám sát kể từ tháng 4/2021 và hiệu suất đầu tư kém hơn mong đợi.
Số lượng công ty niêm yết bằng phương pháp SPAC trong 20 năm gần đây
SEC cũng từng đưa ra lời cảnh báo nhà đầu tư vào tháng 3/2021 khi nhiều người nổi tiếng, bao gồm cả nghệ sĩ giải trí, vận động viên chuyên nghiệp đổ xô rót tiền vào các thương vụ SPAC (nghe khá quen nhỉ ^^).

Một SPAC được thành lập bởi các nhà tài trợ (sponsors). Họ thường là các nhà đầu tư nổi tiếng hoặc các công ty đầu tư.
Lý do Nhà đầu tư nhỏ lẻ mua cổ phiếu của SPAC là vì họ biết đến danh tiếng những sponsors này và tin rằng những sponsors sẽ giúp SPAC mua được những khoản đầu tư tăng trưởng tốt. (Đó cũng là lý do nhiều người nổi tiếng đứng ra quảng bá cho các SPAC).
Công ty lúc này chỉ có duy nhất tài sản là số tiền thu được từ IPO.
Ở bước này, SPAC tuân thủ quy trình IPO như bất kỳ doanh nghiệp nào. Giá cổ phiếu của các SPAC khi IPO thường trung bình là 10 USD/cổ phiếu. Sau khi lên sàn thì SPAC sẽ có mã cổ phiếu riêng.
Các SPAC có 2 năm tìm kiếm một công ty tư nhân để mua lại, sau đó đưa công ty đó thành công ty đại chúng, vì công ty đó sẽ trở thành một phần của SPAC - công ty đã lên sàn từ trước.
Trong trường hợp một SPAC không sáp nhập hoặc mua lại một công ty nào trong vòng 2 năm đầu tiên sau khi lên sàn thì tiền sẽ phải trả lại cho cổ đông. Tuy nhiên thời hạn này khá dễ đáp ứng vì các SPAC thường có sẵn mục tiêu trước khi IPO rồi.
Khi thương vụ hoàn tất, công ty được mua sẽ niêm yết trên sàn chứng khoán. Các nhà tài trợ thường nắm cổ phần 20% trong công ty cuối cùng sau khi sáp nhập.
- Quy định dễ dàng:
Quy trình thẩm định của SPAC không nghiêm ngặt như của 1 thương vụ IPO, vì vậy doanh nghiệp hạn chế được việc công bố thông tin và những quy định phức tạp.
- Tiết kiệm chi phí:
SPAC phải chịu ít chi phí hơn so với IPO. Việc tiếp thị trong khi thực hiện SPAC cũng sẽ tiết kiệm chi phí hơn do không cần tạo roadshow để thu hút các nhà đầu tư.
- Tiết kiệm thời gian:
Lộ trình chào bán công khai bằng SPAC có thể mất vài tháng, trong khi quy trình IPO thông thường có thể mất từ 6 tháng đến hơn 1 năm.
- Công ty được mua lại sẽ có được mức giá tốt hơn IPO truyền thống:Giá IPO sẽ phụ thuộc vào thị trường. Trong khi đó, với SPAC, công ty mục tiêu X có thể đàm phán một mức định giá cố định của mình với các nhà tài trợ của SPAC đó. Đây là một lợi thế lớn đối với doanh nghiệp được mua lại.
- Thông qua SPAC, Nhà đầu tư nhỏ lẻ có cơ hội đầu tư vào các công ty khởi nghiệp đang phát triển nhanh và kiếm lời tốt - một đặc quyền trước đây thường chỉ dành cho những người giàu có.
- Những công ty muốn lên sàn thông qua một vụ sáp nhập với SPAC có thể bị chính các cổ đông của SPAC đó từ chối.
- Nhà đầu tư rót tiền vào SPAC bị hạn chế về mặt thông tin, chủ yếu tin vào danh tiếng của các sponsors nhưng đôi khi xảy ra xung đột lợi ích, đó là các sponsors chỉ cần cố gắng hoàn thành phi vụ để không phải trả tiền lại cho Nhà đầu tư và nhận tiền phí hoa hồng, chứ không quan tâm đến tiềm năng của công ty được mua lại.
- Lợi thế của SPAC cũng chính là rủi ro mà nó có thể mang đến cho Nhà đầu tư. Nếu quy trình IPO truyền thống "khó tính" giúp đảm bảo cho các khoản đầu tư an toàn và sinh lời tốt nhất thì SPAC mang tính mạo hiểm nhiều hơn.
Ví dụ năm 2015, trong số 107 công ty qua SPAC, cổ phiếu không những không có lãi mà để lỗ trung bình 1,4% giá trị. Trong khi, lợi nhuận trung bình mà các công ty theo IPO truyền thống mang về cho nhà đầu tư là 49%.
Công ty tư vấn Renaissance Capital cũng đã chỉ ra rằng lợi nhuận bình quân từ các vụ sáp nhập SPAC trong thời gian từ 2015-2020 là thấp hơn so với mức lợi nhuận bình quân mà nhà đầu tư thu được từ các vụ IPO trong cùng khoảng thời gian.
Ở phần 2 sẽ nói chi tiết hơn về thương vụ của Vinfast thông qua SPAC để niêm yết trên Nasdaq như thế nào. Hy vọng sẽ mang lại nhiều thông tin hữu ích cho mọi người về 1 trong những thương vụ thành công nhất của doanh nghiệp Việt Nam. Mời các bạn đọc tiếp tại đây: Link bài viết phần 2
0 / 5
Ở Việt Nam chúng ta không có Thanksgiving, nhưng lại có một “cụm lễ hội” mạnh mẽ hơn hẳn bất kỳ giai đoạn nào khác trong năm: 11.11, Black Friday, 12.12, Giáng sinh, rồi nối mạch sang cận Tết và ngày vía Thần Tài. Khi tiêu dùng và chiến dịch giảm giá cùng tăng nhiệt, kỳ vọng của nhà đầu tư về doanh thu quý IV và đầu năm thường dịch chuyển trước cả khi báo cáo ra mắt. Câu hỏi thực tế với người làm định lượng là: những mốc này có tạo ra một độ lệch có thể đo lường được trên giá cổ phiếu hay không, độ lệch đó lặp lại đủ ổn định hay không, và nếu có thì biến nó thành quy tắc giao dịch, cắt lỗ, quản trị vốn như thế nào để sống sót qua nhiều mùa.
Trong thế giới tài chính hiện đại, nơi mọi quyết định đều có thể bị ảnh hưởng bởi cảm xúc, tin đồn và sự nhiễu loạn thông tin, việc duy trì kỷ luật trong đầu tư là điều cực kỳ khó. System Trading ra đời để giải quyết chính vấn đề đó.
Trong lý thuyết tài chính hiện đại, người ta thường nói rằng tỷ giá hối đoái di chuyển ngẫu nhiên (random walk). Điều này xuất phát từ Giả thuyết Thị trường Hiệu quả (Efficient Market Hypothesis – EMH): giá đã phản ánh toàn bộ thông tin sẵn có, do đó không ai có thể kiếm lời một cách bền vững từ dự đoán biến động tỷ giá. Tuy nhiên, hơn 50 năm qua, hàng trăm nghiên cứu thực nghiệm lại chỉ ra rằng — thị trường ngoại hối (FX) không hề “hoàn hảo” như sách vở. Nó tồn tại những “anomaly” – các hiện tượng phi hiệu quả có thể đo lường và khai thác được.
Khái niệm thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis – EMH) được Eugene Fama phát triển từ thập niên 1970, nhưng gốc rễ của nó bắt nguồn từ đầu thế kỷ XX với công trình của Louis Bachelier. Theo EMH, giá chứng khoán tại mọi thời điểm đã phản ánh đầy đủ các thông tin sẵn có; do đó, không nhà đầu tư nào có thể đạt được lợi nhuận vượt trội một cách bền vững. Dưới góc độ thống kê, điều này đồng nghĩa với việc chuỗi lợi nhuận của tài sản là ngẫu nhiên, không có tự tương quan và tuân theo một quá trình ngẫu nhiên (random walk).
Nếu bạn nhìn lại chuỗi giá vàng từ năm 2000 đến nay, sẽ thấy một điều: dù biến động, vàng vẫn là tài sản có “pattern” khá ổn định. Trung bình lợi nhuận năm khoảng 7–9%. Volatility (độ biến động) quanh 12–18%. Những cú sốc lớn (như 2008, 2011, 2020) đều có nguyên nhân rõ ràng và mô hình có thể “fit” lại được.
Khoảng hai thập kỷ qua, giới đầu tư toàn cầu dần nhận ra rằng việc “bám” chỉ số thị trường không luôn là lựa chọn tối ưu. Chỉ số vốn hóa lớn như VN-Index hay S&P 500 có xu hướng tập trung phần lớn tỷ trọng vào vài doanh nghiệp khổng lồ. Khi giá các mã này tăng quá mạnh, quỹ chỉ số buộc phải mua thêm, khiến rủi ro “mua đỉnh” trở nên hiện hữu. Trong khi đó, các quỹ chủ động tuy linh hoạt hơn nhưng lại đắt đỏ và phụ thuộc vào cảm tính của nhà quản lý.
Được nghiên cứu và phát triển bởi các chuyên gia từ QMTrade và cộng đồng nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Truy cập ngay!