17/10/2023
7,534 lượt đọc
Nhân sự kiện việc Giao dịch tự động bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) tuýt còi, chúng ra sẽ đi tìm hiểu chi tiết nhưng cũng rất ngắn gọn về các loại Giao dịch tự động trên thị trường nhé. Chắc chắn mọi người cũng đã dùng qua mà không biết đấy.
Nghe từ “tự động” là mọi người đủ hiểu rồi nên mình bỏ qua định nghĩa dài dòng nhé.
Để hiểu rõ hơn thì có thể phân loại Giao dịch đặt lệnh tự động thành 2 nhóm
Loại này lại được chia ra thành 2 loại chính nhỏ hơn: Nhóm thuật toán Tìm kiếm lợi nhuận (Profit-Seeking Algorithm) và nhóm thuật toán Thực thi (Execution Algorithm)
Cái Tìm kiếm lợi nhuận sẽ có các điều kiện để trả lời cho câu hỏi mua/bán chứng khoán nào, thời điểm nào, số lượng bao nhiêu để đạt mục tiêu tối ưu lợi nhuận. Ví dụ: cổ phiếu HPG, khi chỉ số RSI quá bán sẽ mua 3,000,000 cổ, giá trong vùng 20-22.
Khi các điều kiện được thỏa mãn thì cái Thực thi sẽ đi lệnh với mục tiêu khớp được giá đúng yêu cầu nhất (hạn chế trượt hoặc lệch quá nhiều so với giá mục tiêu). Ví dụ, bạn cần mua 3,000,000 cổ phiếu HPG nhưng không muốn đẩy giá cổ phiếu lên cao bất thường, khi đó bạn sử dụng thuật toán POV (phần trăm theo khối lượng - là 1 loại thuật toán Thực thi), thực hiện giao dịch với tỷ lệ tham gia là 10%. Nghĩa là cứ mỗi 1000 cổ phiếu HPG giao dịch trên thị trường thì POV giúp bạn mua vào 100 cổ, cho đến khi đủ số lượng 3,000,000 cổ như bạn yêu cầu. Nhờ đó giá sẽ không bị đẩy lên cao bất thường.
Xếp theo mức độ tác động thì Giao dịch bán tự động sẽ tác động sẽ tác động ít nhất lên hệ thống, vì giao dịch sẽ chỉ thực hiện 1 lần cho mỗi thiết lập bạn đặt nên không phát sinh quá nhiều lệnh. Còn nhóm Giao dịch tự động sẽ gây nhiều tác động lên hệ thống giao dịch hơn.
Cụ thể, nhóm thuật toán Tìm kiếm lợi nhuận có thể bao gồm giao dịch tần suất cao (HFT) để tạo ra nhiều lệnh mua/bán, ước tính 95% các nhà giao dịch thuật toán trên TTCK Việt Nam dùng cách này thông qua AmiBroker. Nhóm thuật toán Thực thi phổ biến như TWAP, VWAP hay POV thì ít tác động hơn vì có tần suất vào lệnh thấp. Tuy nhiên vẫn có những thuật toán Thực thi ít phổ biến hơn nhưng có khả năng gây nghẽn lệnh, cụ thể như thuật toán thực thi tàng hình “Steath” cho phép chia nhiều lệnh nhỏ và có khả năng gửi hàng ngàn lệnh mỗi giây.
Vẫn là bạn muốn mua 3,000,000 cổ phiếu HPG và sử dụng thuật toán Steath để thực hiện thông qua việc chia lệnh đến mức nhỏ nhất là 100 cổ phiếu/lệnh thì ngay lập tức nó sẽ gửi đi 30,000 lệnh độc lập. Vào những lúc thị trường biến động nhanh, chỉ cần 10 nhà đầu tư tương tự cùng tham gia rất có thể sẽ gây ra tình trạng nghẽn lệnh hoặc bất ổn diện rộng trên toàn thị trường như đã diễn ra trước đây trong thời kỳ Covid. Giải pháp đơn giản cho hình thức chẻ lệnh là đảm bảo đơn vị chẻ lệnh nhỏ nhất là 10.000 cổ phiếu.
Lãnh đạo UBCKNN khẳng định: “Các giải pháp dịch vụ, sản phẩm mới luôn được khuyến khích nhưng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn, quan trọng hơn hết là phải vì mục tiêu chung của thị trường và lợi ích của đại đa số các chủ thể tham gia thị trường”. Do đó có thể hiểu việc cấm hiện tại là mục tiêu ngắn hạn để tránh quá tải cho hệ thống giao dịch hiện tại (trong lúc chờ KRX), còn mục tiêu dài hạn thì chắc chắn Giao dịch tự động sẽ là xu hướng vì những lợi ích mà nó mang lại để tối ưu hóa lợi nhuận, công sức, cũng như tăng thanh khoản thị trường.
0 / 5
Trong vài thập kỷ qua, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và phân tích dữ liệu đã làm thay đổi căn bản cách thị trường tài chính vận hành. Một trong những “công cụ” gây ảnh hưởng lớn nhất chính là Black Box Trading – hệ thống giao dịch dựa trên thuật toán, nơi mà logic ra quyết định nằm ẩn trong một cấu trúc lập trình kín, không được công khai.
Trong Quant trading, việc phân tích dữ liệu thị trường không chỉ dừng lại ở các chỉ số tổng hợp như giá mở cửa, đóng cửa, cao nhất, thấp nhất (OHLC) theo khung giờ phút hoặc ngày. Để hiểu sâu cách giá cả được hình thành và biến động trong từng khoảnh khắc, các nhà nghiên cứu và quỹ định lượng (quant funds) dựa vào một loại dữ liệu tinh vi hơn: Tick-by-Tick (TBT) Data. Đây là lớp dữ liệu vi mô (micro-level) phản ánh từng sự kiện trong order book, từ đó cung cấp một bức tranh chi tiết nhất về động lực cung – cầu trên thị trường.
Market Microstructure (Vi cấu trúc thị trường) được định nghĩa bởi National Bureau of Economic Research (NBER) là lĩnh vực tập trung vào kinh tế học của thị trường chứng khoán: cách thức thị trường được thiết kế, cơ chế khớp lệnh, hình thành giá, chi phí giao dịch và hành vi của nhà đầu tư. Nếu ví thị trường tài chính giống như một “cỗ máy”, thì market microstructure chính là bộ phận cơ khí và đường dây điện quyết định chiếc máy đó chạy nhanh, trơn tru hay chậm chạp.
Trong giao dịch tài chính, không phải lúc nào cũng là chuyện “mua rẻ bán đắt”. Với những tổ chức quản lý hàng tỷ USD, bài toán khó nhất lại nằm ở chỗ: làm sao mua/bán khối lượng cực lớn mà không tự tay đẩy giá đi ngược lại mình. Đây chính là lúc khái niệm High Volume Trading (giao dịch khối lượng lớn) xuất hiện.
Trong giao dịch định lượng (Quantitative Trading), việc sử dụng dữ liệu chính xác và có cấu trúc rõ ràng không chỉ giúp nhà đầu tư có cái nhìn tổng quan về thị trường mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định giao dịch chính xác và kịp thời. Tuy nhiên, data handling (xử lý dữ liệu) lại là một bước quan trọng nhưng ít được chú trọng đúng mức. Cùng QM Capital tìm hiểu cách xử lý dữ liệu giúp tối ưu hóa chiến lược giao dịch và tại sao nó lại quan trọng trong Quantitative Trading.
Định lý Bayes, hay còn gọi là Luật Bayes, được đặt theo tên của nhà triết học và thống kê học người Anh Thomas Bayes. Định lý này mô tả cách thức tính toán xác suất của một sự kiện dựa trên kiến thức trước đó về những điều kiện có thể liên quan đến sự kiện đó.
Được nghiên cứu và phát triển bởi các chuyên gia từ QMTrade và cộng đồng nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Truy cập ngay!